Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm.
Chuẩn bị phạm tội được quy định tại Điều 14 Bộ luật Hình sự, cụ thể:
Điều 14. Chuẩn bị phạm tội
1. Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm trừ trường hợp quy định tại Điều 109, điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a khoản 2 Điều 299 của Bộ luật này.
2. Người chuẩn bị phạm một trong các tội sau đây thì phải chịu trách nhiệm hình sự:
a) Điều 108 (tội phản bội Tổ quốc); Điều 110 (tội gián điệp); Điều 111 (tội xâm phạm an ninh lãnh thổ); Điều 112 (tội bạo loạn); Điều 113 (tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân); Điều 114 (tội phá hoại cơ sở vật chất – kỹ thuật của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); Điều 117 (tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); Điều 118 (tội phá rối an ninh); Điều 119 (tội chống phá trại giam); Điều 120 (tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân); Điều 121 (tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân);
b) Điều 123 (tội giết người); Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác);
c) Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 169 (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản);
d) Điều 299 (tội khủng bố); Điều 300 (tội tài trợ khủng bố); Điều 301 (tội bắt cóc con tin); Điều 302 (tội cướp biển); Điều 303 (tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 324 (tội rửa tiền).
3. Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội quy định tại điểm b và điểm c khoản 2 Điều này thì phải chịu trách nhiệm hình sự.
Bình luận:
– Tội phạm có thể thực hiện đến cùng khi người phạm tội đã đạt được mong muốn của họ. Tuy nhiên cũng nhiều trường hợp tội phạm không thực hiện được đến cùng (không như mong muốn ban đầu của họ) vì những nguyên nhân khách quan khác. Đê phân hóa trách nhiệm hình sự đảm bảo nguyên tắc công bằng, Luật hình sự phân chia quà trình thực hiện tội phạm thành các giai đoạn tương ứng với mỗi giai đoạn thì trách nhiệm hình sự không giống nhau bởi lẽ, tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của mỗi giai đoạn là khác nhau.
– Các giai đoạn thực hiện phạm tội là quá trình thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp thể hiện mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và kéo theo đó là mức độ trách nhiệm hình sự mà người phạm tội phải gánh chịu tương ứng với các giai đoạn thực hiện tội phạm.
– Như vậy, việc xác định thời điểm bắt đầu và kết thúc của mỗi giai đoạn phạm tội là rất quan trọng. Xác định không đúng thời điểm này sẽ hoặc xử lý quá nặng hoặc quá nhẹ không tương xứng với tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Các giai đoạn thực hiện phạm tội chỉ xảy ra đối với lỗi cố ý trực tiếp. Lỗi cố ý gián tiếp và vô ý không có giai đoạn mà chỉ có việc có hoặc không phạm tội. Bên cạnh đó, phải xác định biểu hiện khách quan của các hành vi phạm tội trong mỗi giai đoạn đó
– Điều luật đang bình luận quy định về giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình phạm tội thể hiện ra ngoài thế giới khách quan và trách nhiệm hình sự được đặt ra (giai đoạn hình thành âm mưu, dự định, toan tính… diễn ra trong ý thức người phạm tội thì không đặt ra vấn đề trách nhiệm hình sự cho dù nó có nguy hiểm đến đâu.
– Về thời điểm của giai đoạn chuẩn bị phạm tội:
+ Thời điểm bắt đầu của chuẩn bị phạm tội: là thời điểm người phạm tội bắt đầu có hành vi thể hiện ra bên ngoài thế giới khách quan bằng hành vi chuẩn bị tạo điều kiện cần thiết cho việc thực hiện phạm tội.
+ Thời điểm chấm dứt của giai đoạn chuẩn bị phạm tội: Là thới điểm ngay trước khi thực hiện hành vi được mô tả trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm hoặc ngay trước khi thực hiện hành vi liền trươcs hành vi khách quan. Ở đây cần giải thích khái niệm “hành vi liền trước hành vi khách quan”. Giữa giai đoạn chuẩn bị phạm tội và giai đoạn phạm tội chưa đạt có một giai đoạn chung gian được gọi là giai đoạn thực hiện hành vi liền trước hành vi khách quan . Hành vi này không phải là hành vi chuẩn bị cũng không phải hành vi khách quan của cấu thành tội phạm mà nó mang tính chất hỗ trợ hành vi khách quan. Ví dụ A giơ súng lên chuẩn bị bóp cò. Giơ súng lên không phải là hành vi chuẩn bị như liệt kê các hành vi chuẩn bị ở Điều này cũng không phải hành vi khách quan của tội giết người (bóp cò).
– Điều luật đang bình luận liệt kê các hành vi bị coi là hành vi chuẩn bị phạm tội bao gồm:
+ Tìm kiếm, sửa soạn công cụ phương tiện: Công cụ phạm tội là những vật, bộ phận của thế giới khách quan tách rời người phạm tội mà họ dùng để tác động vào đối tượng phạm tội, ví dụ: vũ khí, hung khí, gậy guộc, dây trói… Phương tiện phạm tội là những vật dùng để tạo điều kiện cho việc phạm tội được thuận lợi như xe máy dùng để cướp giật, thang để leo vào nhà… Tìm kiếm công cụ, phương tiện là biện pháp có được công cụ phương tiện, ví dụ: đi mua súng để giết người. Sửa soạn công cụ phương tiện là việc người phạm tội tự chế tạo công cụ phương tiện
+ Tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm: Chuẩn bị kế hoạch phạm tội, thăm dò quy luật sinh hoạt của người bị hại, tìm người giúp đỡ, tìm nơi cất giấu tang vật của tội phạm…
+ Thành lập, tham gia nhóm tội phạm: là hành vi rủ rê, lôi kéo, cưỡng bức, lừa gạt, tụ tập người khác tham gia vào nhóm tội phạm hoặc tham gia với tư cách là thành viên của nhóm tội phạm. Ở đây, loại trừ trường hợp thành lập, tham gia tổ chức tội phạm đã cấu thành tội độc lập quy định tại Điều 109, Điểm a Khoản 2 Điều 299 của Bộ luật hình sự.
– Trách nhiệm ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội:
+ Mặc dù hành vi đã thực hiện ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội chưa tác động vào đối tượng tác động của tội phạm để gây thiệt hại cho xã hộ nhưng họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự. Bởi vì:
+ Bản chất của chuẩn bị phạm tội là hành bi tiền đề tạo điều kiện cho việc thực hiện tội phạm. Hành vi này luôn tới việc đạt một mục đích nhất định. Chính nó quyết định tội phạm có xảy ra hay không và xảy ra như thế nào.
+ Một tội phạm khi thực hiện mà có sự chuẩn bị thì tính nguy hiểm cho xã hội của nó cao hơn so với trường hợp không có sự chuẩn bị. Trong ý thức chủ quan của can phạm là mong muốn tiếp tục thực hiện tội phạm đến cùng. Việc dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội do nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn.
– Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “Người chuẩn bị phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng, hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn đầu của quá trình phạm tội tuy nhiên, tính chất mức độ nguy hiểm còn thấp, người phạm tội mới thực hiện hành vi chuẩn bị, chưa thực hiện hành vi phạm tội quy định trong cấu thành tội phạm, khách thể chưa bị xâm phạm, hậu quả chưa xảy ra… Chính vì vậy, Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 đã thu hẹp phạm vi các tội mà người phạm tội chuẩn bị thực hiện phải chịu trách nhiệm hình sự. Theo khoản 2, khoản 3 Điều luật này, người chuẩn bị phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự được chia thành hai nhóm:
+ Nhóm 1: Người chuẩn bị phạm tội quy định tại một trong các Điều 108, 109, 120, 121, 122, 123, 134, 168, 207, 299, 300, 301, 302, 303, và 324 của Bộ luật hình sự.
+ Nhóm 2: Người từ 14 tuổi đến 16 tuổi chuẩn bị phạm tội quy định tại Điều 123, Điều 168 Bộ luật hình sự.
– Trách nhiệm hình sự của người phạm tội ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội cũng nhẹ hơn so với các giai đoạn sau nó được quy định cụ thể trong từng điều luật quy định về tội phạm cụ thể.
– Lưu ý: Nếu hành vi chuẩn bị phạm tội đã cấu thành một tội độc lập thì người phạm tội chịu trách nhiệm hình sự về tội độc lập đó và tội họ định thực hiện ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
Ví dụ: A có ý định giết B. A đã mua một khẩu súng với mục đích để giết B, nhưng chưa kịp hành động giết B thì bị phát hiện. Trường hợp A phải chịu trách nhiệm về tội mua bán trái phép vũ khí quân dụng và tội giết người ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
(Nội dung được trích dẫn tại trang 25, 26, 27 của cuốn Bình luận khoa học BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) – TS. Trần Văn Biên, TS.Đinh Thế Hưng – NXB Thế giới).
Kiến thức luật chuyên hỗ trợ tư vấn pháp lý miễn phí. Nếu có vấn đề pháp lý cần được tư vấn, hỗ trợ hãy liên hệ với kiến thức luật để được hỗ trợ nhanh chóng. Trân trọng cảm ơn!